Dựa vào nội dung và nét đặc sắc nghệ thuật trong thơ mà bài thơ được chia làm 3 khổ thơ: Khổ 1: Nội dung nói về hình ảnh vườn thôn Vĩ Dạ hiện lên trong tâm trí tác giảKhổ 2: Khổ thơ này nói về hình ảnh một đêm trăng sáng, sông nước nơi xứ Huế. Kết bài: Khái quát nội dung, thi pháp nghệ thuật và giá trị bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà Thơ của ông mang nhiều sắc thái khác nhau, có những vẫn thơ thấm đẫm nước mắt, nhưng cũng có những vần thơ vô cùng trong trẻo, tinh khiết. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử về chủ đề tình yêu. Bài thơ được sáng tác khi ông đã mắc bệnh nặng, vì thế mang một vẻ đượm buồn sâu sắc. Bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ có thể xem là một chủ âm trong cây đàn thơ muôn điệu của Hàn Mặc Tử. Thế giới nghệ thuật là chỉnh thể của hình thức văn học. Văn bản ngơn từ xét về một mặt chỉ là biểu hiện của hình thức bề ngoài của tác phẩm. Tác phẩm trọn vẹn Những khoảng lặng nghệ thuật trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử "Thi sĩ như những con chim sơn ca đứng trong bóng tối cất lên những tiếng cô độc để mua vui cho sự cô độc của chính mình" (Selly). Nếu được yêu cầu phải tìm một chú chim sơn ca ở tận cùng bóng tối, để những gai nhọn của Vay Tiền Nhanh Ggads. Nội dung, đặc sắc nghệ thuật bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Hãy đọc qua tác phẩm này và nêu nội dung cũng như đặc sắc nghệ thuật nổi bật. Nội dung nghệ thuật bài Đây thôn Vĩ Dạ I. Tác giả, tác phẩm Hàn Mặc Tử nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới, cuộc đời ông là nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh, bệnh tật khiến ông mất sớm. Thơ của hàn Mặc Tử được người đời đánh giá kì lạ, độc đáo. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tác giả sáng tác 1938 sau này được đưa vào tập Thơ Điên sau đổi tên thành Đau thương. Đây thôn Vĩ Dạ được nhiều người cho rằng đã lấy nguồn cảm hứng từ mối tình của tác giả với cô gái ở làng Vĩ Dạ, gần bên sông Hương thơ mộng. II. Bố cục bài thơ Bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” được chia làm ba đoạn tương ứng với ba khổ thơ + Khổ 1 Trong tâm tưởng của thi sĩ, hình ảnh vườn Vĩ Dạ hiện lên trong ban mai + Khổ 2 Hình ảnh đêm trăng, sông nước xứ Huế và tâm trạng của nhà thơ + Khổ 3 Hình bóng khách đường xa hiện lên trong trí tưởng tượng của nhà thơ với nỗi niềm hoài nghi. III. Đặc sắc nội dung, nghệ thuật Đặc sắc nội dung Qua góc nhìn của tác giả bức tranh thiên nhiên làng Vĩ Dạ hiện lên thật gần gũi, giản dị nhưng cũng đầy mơ hồ và kì bí có nét rất riêng của xứ Huế mộng mơ. Bài thơ có 3 khổ riêng biệt nhưng vẫn liên kết lại giúp người đọc có được cảm nhận về thiên nhiên và con người Vĩ Dạ, thiên nhiên thật tinh khôi, giản dị với con người nơi này nhất là cô gái ở làng Vĩ Dạ. Cảm xúc của tác giả thật mãnh liệt đó là tình yêu cuộc sống da diết. Đây thôn Vĩ Dạ chính là sự bày tỏ tình yêu quê hương, con người xứ Huế mộng mơ của chính tác giả. Sự khát khao sống của nhân vật trữ tình ẩn trong mỗi đoạn thơ. Đặc sắc nghệ thuật Bài thơ sử dụng các ngôn từ trong sáng, gần gũi, mang lại cảm giác gợi hình gợi cảm cao. Kết hợp tả cảnh với những hình ảnh tượng trưng mang lại nhiều hình ảnh riêng, độc đáo trước đây chưa từng có. Nhiều câu hỏi tu từ, với giọng thơ da diết, như hờn trách. Mỗi khổ thơ đều ẩn chứa tâm tư, tình cảm của tác giả của nhân vật trữ tình. Bài thơ dù không theo thứ tự nhất định nhưng lại hoàn toàn phù hợp với dòng tâm tư và cảm xúc của tác giả. IV. Đặc sắc nghệ thuật trong từng khổ thơ Khổ 1 – Câu đầu tiên tác giả sử dụng câu hỏi tu từ như là một lời mời gọi tha thiết nhưng cũng chính là lời tự trách của bản thân “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Những ai khi đọc câu thơ đầu tiên đều đọng lại trong lòng một nỗi niềm da diết. – Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ “nắng hàng cau” – “xanh như ngọc” vẻ đẹp lấp lánh của hàng cau với ánh nắng của buổi ban mai, làm hiện lên hình ảnh lãng mạn, ấm áp + Hình ảnh “xanh ngọc” làm hiện lên sự tươi xanh của khu vườn như một viên ngọc bích khổng lồ, tràn đầy sức sống. + Hình ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” có nhiều cách hiểu khác nhau hình ảnh những cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng hay hình ảnh lén lút của thi sĩ khi trở về thôn bắt gặp những hình ảnh đẹp đẽ. Khổ 2 – Sử dụng điệp cấu trúc “Gió theo lối gió, mây đường mây” thể hiện nét thú vị cho câu thơ. Hình ảnh gió và mây hiện lên đầy thú vị mang hình dáng của sự chia ly, mỗi người một nẻo. – Nghệ thuật nhân hóa “dòng nước buồn thiu”. Theo tâm trạng của tác giả, cảnh cũng không vui bao giờ. Nghệ thuật nhân hóa cũng góp phần thể hiện tâm trạng của nhà thơ thêm rõ nét. – Câu hỏi tu từ cuối đoạn thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Đây là lời tự hỏi lòng của tác giả. Nó thể hiện nỗi buồn của nhà thơ muốn ngắm trăng nhưng hiện thực lại quá xa vời, khó nắm bắt. Khổ 3 – Nghệ thuật cực tả “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Khi mà giấc mơ ngắm trăng đã tan tành, thi sĩ chỉ còn gửi gắm nỗi niềm vào người yêu. Nhưng hình bóng năm xưa nay đã không còn mà chỉ còn lại trong trí tưởng tượng của nhà thơ mà thôi. “Trắng quá” là lối miêu tả cực đại, thể hiện sự tận cùng của màu sắc cũng như nỗi nhớ của người thi sĩ. – Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời tự bộc bạch của nhà thơ. Bằng việc kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” làm cho lời tự hỏi càng thêm khó xác định. >> Đón xem dàn ý bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11. Lớp 11 - Cảm nhận về vẻ đẹp tình yêu trong sáng trong bài Tôi yêu em Cảm nhận về bài thơ Từ ấy ngắn hay Cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài Từ ấy tác giả Tố Hữu Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang lớp 11 Ý nghĩa nhan đề Thuốc nhà văn Lỗ Tấn Bài số 5 lớp 11 đề 2 cảm nhận hình tượng nhân vật Chí Phèo Cảm nhận về khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang Ngữ Văn 11 Hàn Mặc Tử đã có một cuộc đời đau thương và hết sức ngắn ngủi, thế nhưng ông đã để lại những thi phẩm xuất chúng. Một trong số đó chính là áng thơ Đây thôn Vĩ Dạ - một bài thơ chỉ vỏn vẹn ba khổ nhưng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên cùng bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình xuất chúng. Dễ hiểu vì sao trong phóng trào Thơ mới đầu thế kỉ XX, Hàn Mặc Tử lại là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất cho tới tận ngày nayDàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy CậnTOP3 dàn ý và văn mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo chi tiết nhấtĐôi nét về nhà thơ Hàn Mặc Tử và thi phẩm Đây thôn Vĩ DạHàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông sinh năm 1012 và mất năm 1940. Với chỉ 28 năm sống trên đời, những năm cuối đời mắc bạo bệnh, song ông để lại cho nền thơ ca hiện đại Việt Nam hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ xuất sắcĐây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Hàn Mặc Tử. Bài thơ lúc đầu có tên là Ở đây thôn Vỹ. Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một người con gái xứ thôn Vĩ Dạ khổ 1 Phân tích bức tranh ban mai thôn Vĩ Câu thơ mở đầu khổ thơ đầu tiên bài Đây thôn Vĩ Dạ là một câu hỏi tu từ bâng quơ đầy ẩn ýSao anh không về chơi thôn Vĩ?Câu hỏi tu từ vừa như một lời trách móc nhẹ nhàng dành cho nhân vật “anh” lại cũng như một lời mời gọi đầy tha thiết và chân thành của người con gái. Giọng điệu thơ thân tình da diết đã tạo nên cảm giác gần gũi giữa người đọc và nhân vật trữ tranh thiên nhiên thôn VĩBa câu thơ tiếp theo tập trung khắc họa hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ trong ánh nắng buổi ban mai với vầng dương mới nhúNhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điềnNắng chiếu qua hàng cau, phủ lên vườn cây xanh mướt một tầng ánh sáng trong veo như ngọc. Khung cảnh thôn Vĩ hiện lên dịu dàng, đơn sơ nhưng hết sức tươi đẹpChỉ trong 3 câu thơ ngắn gọn, khổ thơ thứ nhất đã vẽ những nét chấm phá mang tới một không gian thôn Vĩ trong trẻo, dịu dàng. Đó cũng là vẻ đẹp đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế mộng thôn Vĩ Dạ khổ 2 Cảnh đêm trăng thôn Vĩ Bước sang khổ thơ tiếp theo, bức tranh thiên nhiên đã đột ngột chuyển đổi sắc thái. Từ ấm áp, trong trẻo của buổi ban mai chuyển thành sự lạnh lẽo mênh mông của sông nước. Không gian sông nước thôn Vĩ hiện lên mênh mông nửa thực nửa không gian huyền ảo đó là một bức tranh thiên nhiên không hòa hợp với nhauGió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...Hàn Mặc Tử đã sử dụng biện pháp nhân hóa cho dòng nước với tính từ “buồn thiu”. Sông nước hay chính là nỗi buồn của nhân vật trữ tình đã xâm chiếm vào cảnh vật thiên nhiên, khiến chính thiên nhiên cũng nhuốm màu bi thương của cùng, đại từ phiếm định “ai” và câu hỏi cuối khổ thơ gợi cảm giác mơ hồ, xa lạ đầy mộng ảoThuyền ai đậu bến sông trăng đó,Có chở trăng về kịp tối nay?Trong phần lớn những áng thơ của nhà thơ Hàn Mặc Tử, trăng là nguồn cảm hứng bất tận xuyên suốt. Thi sĩ nhắc đến mọi hình ảnh về trăng thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng… Cả một trời trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Khi phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta cũng sẽ thấy được hình ảnh trăng hiện lên như một người bạn tri kỉ của nhân vật trữ tìnhĐây thôn Vĩ Dạ khổ 3 Mơ tưởng của nhân vật trữ tìnhKhổ thơ cuối cùng mô tả một không gian thiên nhiên chập chờn gắn với cảm xúc mơ tưởng, hoài nghi. Điệp ngữ "khách đường xa" có sức gợi tả, ngắt nhịp 4/3 tạo nhịp điệu khẩn trương gấp gáp. Khổ 3 có hai ý chính cần phân tích như sau1-Hình ảnh áo trắng của "em"Màu áo trắng mờ ảo trong sương khói khiến cho dáng hình con người nhòa đi trước mắt, nhòa đi cả trong tiềm thức. Màu áo trong tâm tưởng vốn tràn đầy kỉ niệm nay lại trở nên nhạt nhòa, xa Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. Trong thơ văn cổ đại, “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sông khói làm nhoà đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không ra hình dáng em nhân ảnh. Khổ thơ thứ ba mang lại cảm giác chập chờn, bâng hỏi tu từ và đại từ phiếm chỉThứ hai là câu hỏi tu từ cùng đại từ phiếm chỉ “ai” lặp lại đến hai lần thể hiện sự hoài nghi của tác giả trước cuộc đời và tình người.“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình nhưng suốt cuộc đời phải sống trong cô đơn bệnh cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử vừa mang vẻ đẹp rất thực với tất cả nét trong sáng, tinh khôi, thơ mộng đặc trưng cho xứ Huế nhưng cũng rất mơ hồ, hư ảo. Bài thơ đã thể hiện nỗi niềm thiết tha gắn bó với đời, thiết tha sống đến khắc khoải và đau đớn của Hàn Mặc Tử trong những ngày cuối đời ở trại phong Quy Nhơn. ĐÂY THÔN VĨ DẠTÁC GiẢLà nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới.Hồn thơ hết sức phức tạp,đầy bí ẩn nhưng vẫn thể hiện rõmột tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời.Đem đến cho thơ mới những sáng tạo độc đáo,những hìnhtượng,ngôn từ đầy ấn tượng,gợi cảm giác liên tưởng và suytương dồi với bút pháp lãng mạn,nhà thơ còn sửdụng cả bút pháp tượng trưng,yếu tố siêu XỨ-In trong tập THƠ ĐIÊN Đau thương,sáng tác năm DUNG-Bức tranh phong cảnh thiên nhiên,con người,tình người xứ buồn sâu kín trong dự cảm hạnh phúc chia xa và lòng thiết tha với cuộc đời của nhà HỨNG-Dòng hồi tưởng về cảnh đẹp xứ Huế,con người xứ xúc về mối tình với cô gái Hoàng Thị Kim Cúc– một cô gái Huế đài các, đoan trang, kín đáo đến bí mặc cảm về bản CẢNH SÁNG TÁC-Hàn Mặc Tử có yêu thầm một cô gái quê ở Vỹ 1938,nhà thơ tặng cho thiếu nữ ấy tập thơ "Gái quê",sau đó,cô gái gửi chothi sĩ một bức ảnh phong cảnh Huế với lời hỏi thăm,động viên thi sĩ mau bình phục ==> Gợi cảm hứng cho thi sĩ làm thơ. Tình cảmbí ẩn của Hoàng Cúc khiến HMT băn khoăn, xúc động. Tấm bưu thiếp phong cảnh sông nước đã đánh thức những kỉ niệm về thônVỹ,vê xứ Huế,và cả mối tình đơn phương của thi sĩ đối với Hoàng TÍCH1. Khổ 1- Câu mở đầu“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”+ câu hỏi tu từ Mang sắc thái tự nhiên, thân mật  vừa hỏi vừa trách nhẹ nhàng, vừa mời gọi thathiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ.“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” Hình ảnh “nắng hàng cau – nắng mới lên”->> Gợi lên cái nắng ấm áp, rực rỡ, trong trrẻo, tinh khôi trong buổibình minh, làm bừng sáng cả không gian hồi tưởng.“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”-Vườn ai mướt quá như lời cảm thán mang sắc thái ngợi ca-Xanh như ngọc hình ảnh so sánh mới lạ, đầy sức gợi“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”-lá trúc gợi sự thanh mảnh, mềm mại-mặt chữ điền một khuôn mặt khoẻ mạnh, chất phát, thuần hậuSự hài hòa kín đáo giữa cảnh và người -> một nét đẹp kín đáo, thâm trầm rất huế2. Khổ 2Hình ảnh gió, mây chia lìa tan tácGióLối gió>khổ thơ với biện pháp nhân hoá không chỉ là cái buồn của cảnh mà còn là cáibuồn của lòng người“Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?”-Hình ảnh sông trăng dòng sông lấp lánh ánh trăng vàng  Dòng sông của cõi mộng, cõi huyền ảo-Con thuyền chở trăng  Con thuyền của mộng tưởng đang chở trăng về một nơi nào đó trong bộ khung cảnh khổ hai là một thế giới thực như ảo3. Khổ 3- Tâm trí của nhà thơ hoàn toàn chìm trong cõi mộng“Mơ khách đường xa khách đường xa” điệp ngữ “khách đường xa” nhấn mạnh nỗi xót xa của nhà thơ trước lời mời gọi của cô gái thôn Vĩ, mãichỉ là người khách xa xôi, người khách trong mơ mà thôi.“Áo em trắng quá nhìn không ra”Bóng người thấp thoáng, mờ ảo trong màu trắng của áo lẫn với màu trắng củasương khói mịt mờ.“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”Giữa cảnh và người có màn sương khói che ngăn, khiến cho người chỉ là cái bóngảnh nhạt nhoà  tất cả đều mờ ảo giữa cảnh và người“Ai biết tình ai có đậm đà”Đại từ phiếm chỉ “ai” và câu hỏi tu từ -> hoài nghi, băn khoăn-Tình cảm của người xứ Huế phương xa kia có đậm đà không, hay cũng mờ ảo, dễ tan như màu sương khói-Cô gái Huế có biết được tình cảm nhớ thương đậm đà, da diết của nhà thơ?-Ý thơ thể hiện nỗi trống vắng, cô đơn trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời." Ai biết tình ai có đậm đà ? "Điệp từ “ai”Câu hỏi tu từChút hoài nghi băn khoănNgười xứ Huế có đậm đà ?=> Càng dâng lên nỗi cô đơn, trốngvắng, khao khát yêu thươngCâu hỏi tu từCó biết lòng nhà thơ?TỔNG KẾT1. Giá trị nghệ thuật- Hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm; ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, giàu liên Âm điệu, nhịp điệu thơ tinh tế, thiết Hình ảnh thơ sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và Nghệ thuật liên tưởng, so sánh, nhân hóa, cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức dung- Bài thơ là một bức tranh toàn bích về cảnh vật và con người thôn Qua đó bộc lộ tình yêu đời, yêu người, niềm ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc của nhà thơ. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG BÀI THƠ "ĐÂY THÔN VĨ DẠ" Ngôn từ nghệ thuật chính là chất liệu của văn học. Ngôn từ nghệ thuật với tính phi vật thế, tính hình tượng tác động vào người đọc thông qua trí tưởng tượng. Chính nhờ trí tưởng tượng và khả năng tác động vào trí tưởng tượng mà ngôn từ nghệ thuật cho phép người đọc có thể tái tạo được cả không gian và thời gian, có thể có được những cảm nhận đa dạng nhiều chiều về thời gian, không chỉ là thời gian thực tại mà còn là thời gian quá khứ, thời gian tương lai, không chỉ thời gian thật, mà còn có thể là thời gian trong tâm tưởng. Ngôn từ nghệ thuật cũng có thể giúp con người vượt mọi giới hạn để chinh phục không gian, bất kể xa hay gần, bất kể không gian thực hay không gian trong mơ ước. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ mang những đặc diểm đa dạng về thời gian không gian. Xuyên suốt mạch thơ là những mốc thời gian rất khác nhau, và thời gian dường như ngắt quãng, không liền mạch, từng mốc thời gian hiện lên chập chờn như những thước phim quay chậm của hoài niệm, cảm giác về thời gian bị chi phối mạnh mẽ bởi xúc cảm của nhà thơ. Thời gian trong Đây thôn Vĩ Dạ có thể là một buổi sáng sớm, “nắng hàng cau”. Hình ảnh “nắng mới” gợi đến những khoảnh khắc đầu tiên của ngày mới. Chính cái thời gian của buổi sớm mai ấy, chính những khoảnh khắc đầu tiên tươi mới ấy đã góp phần tạo nên khung cảnh tinh khôi thanh nhã của bức tranh vườn ở khổ thơ đầu. Thời gian trong đây thôn Vĩ Dạ cũng có thể là một buổi trưa tĩnh lặng đầy gió. Đó là hai câu thơ “Gió theo lối gió, mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Không nói gì đến thời gian, nhưng tại sao ta lại có cảm giác oi ả tĩnh mịch của một buổi trưa vắng? Chính chữ “lay” đã mang lại cho ta cái cảm giác kì lạ ấy. Ngôn từ nghệ thuật , nhất là những từ gợi tả có thể cho chúng ta liên tưởng cùng lúc đến nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau. Ví như câu thơ trong Tây Tiến “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” Nhịp thơ bốn ba với chữ “HỊch” mang vần “ịch” một vần nặng ở ngay quãng ngắt là một sáng tạo đắt giá của nhà thơ. Giờ đây chữ “Hịch” không còn là một phần của địa danh “Mường Hịch” mà nó còn có giá trị gợi tả rất cao, nó cho người đọc liên tưởng về những bước chân của cọp trong rừng thẳm Tây Tiến, từ đó câu thơ tăng thêm sức nặng, và thiên nhiên dữ dội hiện lên có hồn hơn, sống động hơn, sự dữ dội của nó tác động trực tiếp vào giác quan và liên tưởng, khiến người đọc không thoáng khỏi chút rùng mình. Với chữ “lay” trong đây thôn Vĩ Dạ cũng vậy. Chữ “lay” là sự chuyển động liên tục của hoa bắp, hoa bắp tĩnh tại bị những sự vật vận động là mây và gió bỏ lại, chữ “lay” gợi lên cái buồn hiu hắt vì nỗi cô đơn, vì sự bất lực phảng phất trong dáng vẻ ấy. Tuy vậy, chữ “lay” còn gợi lên cái chập chờn của những bóng nắng lay động không ngừng, chữ “lay” cũng gội đến những giọt nắng lung linh lấp lánh trên mặt sông. Tức ở đây chữ “lay” gieo vào cảm giác người đọc ý niệm về sự tồn tại của nắng, không phải là nắng nhẹ, “nắng mới”, mà là cái nắng oi ả, cái nắng chói chang, cái nắng phủ khắp, cái nắng của ban trưa! Thời gian ấy cũng có thể là một đêm trăng nơi bến sông trăng kì ảo trong tâm tưởng con người “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”. Sự vận động của thời gian gắn chặt với cảm xúc của nhà thơ và song song với sự biến chuyển của các hình tượng thơ. Có những lúc thời gian trôi rất chậm. Chậm trong cái nhìn tỉ mỉ miêu tả những chi tiết đẹp của khu vườn, từ ánh sáng màu sắc đến các chi tiết. Ở khổ thơ thứ nhất trong cái nhìn tương đối vui tươi về cuộc đời thời gian trôi cũng khá bình thản và chậm rãi. Nhưng đến những khổ thơ sau, khi những hình tượng dần chuyển đổi với tốc độ nhanh hơn, chỉ một khổ thơ mà liên tục là những hình ảnh khác nhau ở những không gian và thời gian khác nhau như “mây”, “gió”, “hoa bắp”, “thuyền”, “bến sông trăng” thì thời gian, trong cái tâm trạng chia phôi đau buồn, trong cái tâm trạng ủ ê cô đơn, dường như cũng gấp gáp hơn. Đến đây không thể không nhắc đến chữ “kịp”, đó là một biểu hiện gấp gáp của thời gian. Ẩn chứa trong chữ “kịp” ấy là một thái độ gấp gáp, gấp gáp với quỹ thời gian sống ít ỏi, gấp gáp để tậm hưởng những gì tối thiểu nhất của cuộc đời tươi đẹp, thứ tình yêu to lớn của thi nhân mà số phận đã lạnh lùng cướp mất. Trong Đây thôn Vĩ Dạ, thời gian luôn gắn liền với không gian. Cả bài thơ là bốn bức tranh, bốn khung cảnh, bốn tâm trạng,và để dựng nên những bức tranh ấy, không thể không gắn yếu tố thời gian với yếu tố không gian. Không gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là không gian ảo, không gian trong tâm tưởng của thi nhân, điều này là dễ hiểu, bởi bài thơ ra đời trong hoàn cảnh ngặt nghèo của chính bản thân thi sĩ, bệnh phong đau đớn đã đẩy thi sĩ ra khỏi cuộc đời mà người hằng yêu quý, đẩy người vào bóng tối, đoạn tuyệt người với thế giới đầy ánh sáng mà người luôn lưu giữ một vị trí to lớn trong trái tim mình. Điều này lí giải tại sao các không gian đều là những không gian mờ nhòa sương khói, là những không gian gắn với từ phiếm chỉ “ai”, không rõ ràng, hoàn toàn mơ hồ, mênh mang như bị che phủ bởi một màn sương khói. Nhưng vấn đề đặt ra là, ở những không gian ấy, phần thực, chất liệu thực, chiếm tỉ lệ như thế nào. Đi vào mạch cảm xúc của nhà thơ xuyên suốt tác phẩm, ta có thể nhận thấy phần thực của không gian giảm dần theo từng khổ thơ, các không gian biến chuyển từ không gian thực dựng lại bằng hồi tưởng, đến những không gian hư ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, đến không gian của cõi riêng, của cõi đau thương, là không gian có được do trạng thái sáng tạo đặc biệt của Hàn Mặc Tử. Không gian vườn tược nơi thôn Vĩ ở khổ thơ đầu tiên mang phần thực nhiều hơn cả. Các chi tiết không gian được gợi lên khá rõ nét và chi tiết. “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Màu sắc, ánh sáng, bối cảnh xa gần được hiện lên khá chi tiết và gợi cảm. Khổ thơ có nét tươi sáng trong trẻo. Có thể hiểu rằng những đường nét màu sắc mà thi nhân dùng để họa lên bức tranh ấy chính là những đường nét màu sắc trong hồi tưởng. Những cảnh vật mà thi nhân đã bắt gặp trong quá khứ, nay hiện về từ những khao khát gần gũi cuộc đời, từ tình yêu tha thiết với cuộc đời. Khổ thơ mang khát vọng trở về, khát vọng được gặp lại những cảnh vật quá đỗi thân quen xứ Huế mà thi sĩ họ Hàn đã từng gặp, từng yêu thương, từng quyến luyến biết bao lúc trước. Khổ thơ là một nỗi nhớ dâng trào. Không gian chia phôi của mây, gió bờ sông chắc chắn là không gian tưởng tượng, bởi lẽ sự vận động của các hình tượng thơ không tuân theo logic đời sống. Mây và gió trong thiên nhiên không thể cắt lìa, không thể “gió theo lối gió mây đường mây”, bởi mây trôi là do gió thổi, gió với mấy quấn lấy nhau không rời. Khung cảnh bị chi phối mạnh mẽ bởi logic tình cảm. Chính tâm trạng đau đớn khi phải rời xa cuộc sống, phải cách li với cuộc sống đã dây lên nỗi buồn vô hạn nhuốm vào cảnh vật làm nên trạng thái chia li của mây và gió. Tính thực ở không gian này dường như không còn, bởi cảm xúc đã lấn át lí trí, logic tình cảm chi phối sự vận động của hình tượng, đây không còn là không gian của thế giới thực, mà là không gian của thế giới cảm xúc, thế giới tâm tưởng. Cũng theo mạch cảm xúc ấy, không gian bến sông trăng cũng là không gian của thế giới tưởng tượng, thế giới tâm trạng. HÌnh tượng thơ cho ta cảm giác kì ảo và bàng bạc như thể bến sông trăng ấy là bến sông trăng của thế giới thần thoại thế giới cổ tích, của một cái gì đó huyền bí và diễm lệ, mơ hồ khó nắm bắt. Không gian và thời gian của tác phẩm văn học có đặc tính chung đó là tính tư tưởng. Tái hiện không gian không phải để dựng nên một khung cảnh đơn thuần. Tái hiện thời gian không phải chỉ để nói về một diễn biến. Mà quan trọng hơn, từ không gian ấy, từ thời gian ấy, tác phẩm phải bộc lộ được một thông điệp, một tư tưởng, một tình cảm. Với thơ ca, thông điệp toát lên từ thời gian và không gian nghệ thuật không là gì khác hơn cảm xúc của thi nhân, nguồn cội của tác phẩm. Điều này rất dễ hiểu, bởi đặc trưng của thơ ca là cảm xúc, “Thơ ca là tiếng nói hồn nhiên nhất của con người”, thơ ca bắt nguồn từ muôn trùng cảm xúc và cũng kết thúc ở muôn trùng cảm xúc, đó là cầu nói giữa những trái tim cùng nhịp đập, của những tâm hồn đồng điệu. Điều đó giải thích được tại sao cả không gian và thời gian của “Đây thôn Vĩ Dạ” đều vận động trên sự chi phối của sự vận động của cảm xúc. Cả bài thơ là những hình ảnh rời rạc, không gian rời rạc, thời gian rời rạc, nhưng tất cả đều rất thống nhất, rời rạc nhưng không lạc lõng, không lạc điệu, bởi ẩn dưới bề mặt con chữ là sợi dây gắn kết tuy mảnh mai nhưng vồ cùng bền vững Sợi dây cảm xúc. Bài thơ là một trong những bài hiếm hoi mang sắc màu tươi sáng của Hàn Mặc Tử. Tuy vậy nuỗi buồn và sự cô đơn, cái âm hưởng chia lìa vẫn tồn tại trong bài thơ, càng lúc càng nặng và khổ thơ cuối tăng đến đỉnh điểm. Từ cái nhìn trong sáng, có phần tươi vui, mạch thơ đột ngột chuyển thành tâm trạng bi sầu, chia li, thành cái lo âu gấp gáp, và đỉnh điểm là khổ thơ cuối, với những nỗi đau lên đến cực điểm, nghẹn lại thành từng tiếng nấc đau đớn! Có thể nói khổ thơ cuối cùng, đỉnh điểm của cảm xúc đau thương bao trùm toàn bài thơ, chính là điểm hội tụ của không gian và thời gian. Cả không gian và thời gian ở đây đều mờ nhòa trong một cõi đau thương vô hình. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Ở đây là nơi nào? Không biết. Ở đây là lúc nào? Cũng chẳng rõ. Chỉ có sương khói và nhân ảnh mờ ảo xa xôi. Dường như nhà thơ đã để tâm hồn mình lạc vào một chiều kích khác với sự vận động mơ hồ tưởng như không có của không gian và thời gian, nơi mà chỉ có nhà thơ,với nỗi đau, với hoài niệm , với sương khói và những ảo ảnh. Có người cho rằng đó là đỉnh điểm của đau thương, khi Hàn Mặc Tử, trước nỗi đau thể xác và linh hồn tan rã, đã để cho đau thương kéo đi, và những vần thơ cât lên vô thức như những hồi kí của đau thương. Đau đớn đến tột cùng cũng chính là lúc cảm hứng sáng tạo thăng hoa ở đỉnh điểm. Và ở đỉnh điểm đó, thơ là sản phẩm của vô thức, của cõi mơ, cõi đau. Ở cõi riêng ấy, sự tồn tại của không gian và thời gian hoàn toàn thoát ly mọi quy luật không gian thời gian mà ta thường thấy, sự vận động của toàn vũ trụ chi phối bởi sự vận động của xúc cảm. Ngôn từ nghệ thuật, chất liệu đặc biệt của văn học, đã truyền tải xúc cảm phức tạp, sâu kín với những nỗi niềm đau đáu, tủi phận của nhà thơ bằng sự vận động của không gian và thời gian biến ảo như vậy… Lạc vào cõi hư ảo với thời gian như ngưng đọng để mở lòng mình đón nhận những vang vọng từ trái tim thi nhân, người đọc như lạc lối trước vô chừng hỗn độn cảm xúc, để một nỗi niềm mênh mang xâm chiếm, và rồi ám ảnh khôn nguôi… Nguồn St - Học văn chị Hiên - Hơn cả một bài văn Ngày đăng 28/09/2013, 0810 VÀI NÉT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ Tác giả Đỗ Minh Phúc Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn thi sĩ ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo…nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái- dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời. Nhưng dù được viết theo khuynh hướng nào, thơ Hàn Mặc Tử vẫn là những vần thơ trong sáng, lung linh, huyền ảo, có một ma lực với sức cuốn hút diệu kì đối với người yêu thơ Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của phong trào Thơ mới. Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa dạng, nhiều sắc màu. Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu thực. Tiếp cận với thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là cảm nhận được tính hàm súc, mới lạ của ngôn từ, hình ảnh thơ; tính đa nghĩa, tạo sinh của văn bản thơ; tính điêu luyện trong cách tổ chức, cấu trúc tác phẩm và tính mơ hồ, khó hiểu. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” có thể xem là một chủ âm trong cây đàn thơ muôn điệu của Hàn Mặc Tử, là một thi phẩm xuất sắc của thi đàn Thơ mới. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của bài thơ sẽ giúp người đọc hoá giải được phần nào lòng yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt nhưng đầy uẩn khúc của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Thế giới nghệ thuật là chỉnh thể của hình thức văn học. Văn bản ngôn từ xét về một mặt chỉ là biểu hiện của hình thức bề ngoài của tác phẩm. Tác phẩm trọn vẹn xuất hiện như một thế giới nghệ thuật, một khách thể thẩm mĩ. Dùng từ “thế giới” để chỉ tác phẩm văn học là có cơ sở khoa học, bởi thuật ngữ “thế giới nghệ thuật” thoã mãn các ý nghĩa của khái niệm “thế giới” chỉ sự thống nhất vật chất của các biểu hiện đa dạng; có giới hạn về không- thời gian; phạm vi tác động của các qui luật chung, chứng tỏ có một trật tự thống nhất cho toàn bộ; có tính đầy đủ về các qui luật nội tại; là một kiểu tồn tại, thực tại. Thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người. Tuy nhiên, việc xác định thế giới nghệ thuật như thế nào thì chưa có ý kiến thống nhất. Từ khái niệm “thế giới” nêu trên có thể hiểu “thế giới nghệ thuật” là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ chỉ có trong tác phẩm văn học nói riêng và trong tác phẩm nghệ thuật nói chung, trong cảm thụ của người tiếp nhận, ngoài ra không tìm thấy ở đâu cả. Thế giới nghệ thuật mang tính cảm tính, có thể cảm thấy được và là một kiểu tồn tại đặc thù trong chất liệu và trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi yếu tố đa dạng trong tác phẩm. Tóm lại, thế giới nghệ thuật hiểu một cách khái quát là tập hợp tất cả các phương thức, hình thức nghệ thuật biểu hiện mà nhà văn sử dụng để phản ánh và sáng tạo hiện thực. Để tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, thiết nghĩ cũng nên cần trở lại một số vấn đề có liên quan đến bài thơ Hồi còn làm ở Sở Đạc điền Bình Định, Hàn Mặc Tử có một mối tình đơn phương với Hoàng Thị Kim Cúc- con gái của chủ sở, người Huế. Mối tình chưa được mặn nồng thì Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo nhưng lòng vẫn nuôi hy vọng ở mối tình đơn 1 phương đó. Khi trở lại Qui Nhơn thì Hoàng Cúc đã theo cha về ở hẳn ngoài Huế nên thi sĩ rất đau khổ. Về sau khi biết Hàn mắc bệnh hiểm nghèo phải xa lánh mọi người để chữa bệnh, Hoàng Cúc đã gửi vào cho Hàn một tấm thiếp kèm vài lời động viên. Tấm thiếp là bức phong cảnh in hình dòng sông với hình ảnh cô gái chèo thuyền bên dưới những cành trúc loà xoà, phía xa xa là ráng trời, có thể là rạng đông hay hoàng hôn. Nhận được tấm thiếp ở một xóm vắng Bình Định- nơi cách li để chữa bệnh- xa xứ Huế. Hàn Mặc Tử đã nghẹh ngào. Tấm thiếp như một chất xúc tác tác động mạnh mẽ đến hồn thơ Hàn Mặc Tử. Những ấn tượng về xứ Huế đã thức dậy cùng với niềm yêu đời vô bờ bến. Thi sĩ liền cất bút viết bài thơ này trong một niềm cảm xúc dâng trào. Nội dung tự thân của bài thơ đã vượt ra khuôn khổ của một kỉ niệm riêng tư. Được gợi hứng từ tấm thiếp nhưng bài thơ không đơn thuần là những lời vịnh cảnh, vịnh người từ tấm thiếp mà đó là tiếng lòng đầy uẩn khúc của một tình yêu cháy bỏng nhưng vô vọng; một niềm khao khát sống, thiết tha gắn bó với cuộc đời, nhất là lúc nhà thơ đang mắc phải căn bệnh hiểm nghèo. Đến với thế giới nghệ thuật của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là đến với một thế giới nghệ thuật đầy cá tính sáng tạo, mang những nét riêng cá tính và dị biệt của một hồn thơ đau thương, đa sầu, đa cảm trước thiên nhiên, cuộc sống và con người. Trước tiên nhìn từ góc độ không- thời gian nghệ thuật, bài thơ liên kết với nhau không tuân theo tính liên tục của thời gian và tính duy nhất của không gian cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong ánh nắng mai với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cảnh thực; cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo, thực hư xen lẫn vào nhau chập chờn chuyển hoá và hình bóng “khách đường xa” nơi chốn sương khói mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Không- thời gian nghệ thuật của bài thơ được sáng tạo mang tính chủ quan gắn với tâm lí và cảm quan của nhà thơ. Thời gian trong bài thơ tồn tại không có tính liên tục, bị đứt nối, ngắt quãng cảnh thôn Vĩ vào buổi sớm tinh mơ- cảnh sông nước đêm trăng và cuối bài thơ chỉ còn là thời gian vô thức, không xác định. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” như một dòng chảy trôi những đứt nối của một nỗi niềm thiết tha gắn bó với đời, khát vọng sống đến khắc khoải. Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ của nhà văn về cuộc đời và con người. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đã thể hiện quan niệm của Hàn Mặc Tử về thế thái nhân sinh. Cuộc đời là một chuỗi thời gian đứt gãy, chắp nối và cuối cùng tan vào hư vô. Mở đầu bài thơ, thời gian bắt đầu một ngày mới “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”, cảnh vật tràn đầy sức sống. Thời gian thường vận động theo dòng vận động tuyến tính, một chiều. Thế nhưng, nét khác là thời gian trong bài thơ không liên tục mà ngắt quãng. Thời gian mở đầu là buổi sớm tinh khôi nhưng đột ngột chuyển sang đêm trăng đầy mong ngóng, lo âu, buồn đến nao lòng và kết thúc trong thời gian mộng ảo, không xác định. Sự đứt nối thời gian trong bài thơ như một nỗi niềm tâm sự của nhà thơ về cuộc đời và kiếp sống mong manh, đứt đoạn của con người, của Hàn Mặc Tử- một kiếp người dang dở tình duyên và sự nghiệp văn chương. Thời gian của bài thơ không mang tính liên tục còn không gian lại không tuân theo tính duy nhất. Không gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là không gian của sự chia lìa. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học là mô hình thế giới độc lập, có tính chủ ý và mang ý nghĩa tượng trưng của tác giả, là không gian tinh thần của con người, là không gian sống mà con người cảm thấy trong tâm tưởng. Không gian nghệ thuật là loại không gian topos, là không gian cảm giác được, là không gian nội cảm chứ không phải như không gian mặt phẳng kiểu Euclid. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống. Do đó không thể quy không gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” về không gian địa lí hay không gian vật lí, vật chất. 2 Không gian trong bài thơ là không gian xứ Huế và không gian một vùng quê Bình Định xa vời, cách trở, huyền hồ ”mờ nhân ảnh”. Hai không gian nhuốm màu cách biệt như mối tình đơn phương dang dở cuả Hàn- Hoàng khiến ta chạnh lòng nhớ lại hai không gian li biệt khi Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều- một cuộc chia li đầy xót xa, đau đớn Người lên ngựa, kẻ chia bào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Nhưng dù sao Hàn Mặc Tử vẫn đợi chờ và nuôi mầm hi vọng cho mối tình tuyệt vọng ấy. Hai không gian xa xôi, ngăn cách ấy không phải vì không gian địa lí mà đó là sự cách trở của hai tâm hồn, là nỗi niềm thổn thức của Hàn thi sĩ. Không gian ở đây được soi chiếu qua lăng kính cảm xúc chủ quan của nhà thơ. Tóm lại, cả bài thơ liên kết với nhau không theo một trật tự nào của không gian và thời gian. Nhưng về mạch cảm xúc thì vận động nhất quán trong cùng dòng tâm tư Đó là lòng yêu đời, lòng ham sống mãnh liệt nhưng đầy uẩn khúc của một hồn thơ, lòng thiết tha với cảnh vật, với con người và cuộc sống. Vì thế, bố cục tuy có vẻ “đầu Ngô mình Sở”nhưng lại liền mạch, liền khổ. Đây là một nét độc đáo của tác phẩm. Thế giới nghệ thuật trong bài thơ còn thể hiện ở sự lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nghệ thuật để miêu tả hiện thực và nội tâm một cách sinh động và sâu sắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã khai thác có hiệu quả biện pháp tu từ truyền thống -Câu hỏi tu từ Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc, Lá trúc che ngang mặt chữ điền. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là một câu hỏi có nhiều sắc thái vừa hỏi han, vừa hờn trách, vừa nhắc nhở, vừa mời mọc. Câu hỏi như xoáy sâu vào nỗi đau trong lòng nhà thơ- một người đang mang căn bệnh hiểm nghèo, bế tuyệt trước tình yêu và cuộc sống- biết bao giờ được quay gót trở về thôn Vĩ tươi đẹp, thơ mộng. Nơi đã để lại trong kí ức nhà thơ những dấu chân kỉ niệm với biết bao hình ảnh nên thơ, gợi cảm. Thôn Vĩ là nơi Hàn Mặc Tử thường lui tới khi còn là học sinh trường Pellerin ở Huế. Hơn thế nữa, nơi ấy Hàn đang ấp ủ một mối tình tuyệt vọng. Chính vì vậy, việc trở về thăm thôn Vĩ như một sự thôi thúc bên trong tâm hồn nhà thơ nhưng biết khi nào ước mơ ấy hoá thành hiện thực. Hình tượng chủ thể trong câu thơ trên là “cái tôi” li hợp, bất định vừa là mình, vừa phân thân ra cùng một lúc nhiều mình khác nữa . Tác giả đang tự phân thân để hỏi chính mình về một việc đáng ra phải thực hiện từ lâu nhưng giờ đây không biết có còn cơ hội nữa không. Sự phân thân và những sắc thái tình cảm phức hợp hoà trộn vào nhau trong cùng một câu hỏi làm cho niềm ao ước được trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt, vừa uẩn khúc, khó giãi bày. Nghĩa là ao ước đấy song cũng đầy mặc cảm. Ở khổ hai của bài thơ, câu hỏi tu từ lại tiếp tục xuất hiện như một dấu nhấn cảm xúc, tâm trạng Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay? Câu hỏi ở cuối khổ thơ có ngữ điệu hỏi thể hiện trong các từ “Thuyền ai”… “đó”…”có chở”…”kịp”…Ngữ điệu hỏi ấy toát lên một niềm hi vọng đầy khắc khoải, phấp phổng trong tâm trạng. Khổ cuối của bài thơ lại xuất hiện một câu hỏi tu từ như một lời ướm hỏi đậm nét hoài nghi 3 Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra. Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, Ai biết tình ai có đậm đà? Câu hỏi là niềm hoài nghi về sự đậm đà trong tình cảm của ”ai” đó đối với Hàn Mặc Tử. Chữ “ai” thứ nhất là chủ thể- tác giả. Chữ “ai” thứ hai có thể hiểu theo nghĩa hẹp là “khách đường xa” nhưng có thể mở rộng ra là những người tình trong cõi mộng, thoắt ẩn, thoắt hiện trong tâm trí của Hàn Mặc Tử. Ở đây không phải là nhà thơ “không tin” mà là “không dám tin” cho tình ai có đậm đà thì đúng hơn. Không tin thì nghiêng về thái độ lạnh lùng, không mong đợi gì, còn không dám tin thì vẫn còn bao hàm cả một hi vọng sâu kín. Qua những câu hỏi tu từ rải dọc dọc suốt chiều dài bài thơ, ta như cảm nhận được diễn biến tâm trạng của Hàn Mặc Tử từ ao ước, đắm say đến hoài vọng, đợi chờ và mơ tưởng, hoài nghi để cuối cùng sầu muộn và bi quan, yếm thế. Tất cả chỉ là những cung bậc khác nhau nhưng cốt lõi vẫn là một nỗi niềm thiết tha giao cảm với đời, với con người. Đó là những cảm xúc lành mạnh của một tâm hồn trong trẻo chứ không chán chường đập phá, tiêu cực. Nhìn chung đây không phải là những vần thơ trao- đáp. Hỏi chỉ là hình thức trình bày nỗi niềm tâm trạng. Các câu hỏi được phân bố khắp toàn bài. Vì thế, âm điệu bài thơ bị chi phối bởi ngữ điệu của những câu hỏi ấy. Cảm xúc trong bài thơ phần lớn đã được chuyển vào âm điệu của những câu hỏi. Trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học không chỉ có yếu tố ngôn từ mà còn có cả thế giới được miêu tả theo các nguyên tắc nghệ thuật. Đến với thế giới nghệ thuật của “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta bắt gặp hàng loạt những hình ảnh đầy chất thơ và giàu sức gợi cảm. Mở đầu bài thơ là hình ảnh thật giản dị, mộc mạc, gần gũi với biết bao làng quê Việt “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên…”. Hình ảnh ấy hiện lên trước tiên trong kí ức nhà thơ bởi nơi ấy đong đầy kỉ niệm của một thời cắp sách mà Hàn Mặc Tử không thể xoá nhoà và nơi đây cũng là quê hương của người tình trong mộng- Hoàng Cúc. Vì thế, cảnh vật cũng gợi nhớ, gợi thương, gợi sự trắc trở, uẩn khúc trong lòng nhà thơ. Hình ảnh quen thuộc ấy như những con sóng xô bờ khơi đậy nỗi nhớ Vĩ Dạ đến cồn cào, da diết. Hình ảnh “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên” sao lại soi chiếu đầu tiên vào cảm quan tác giả và có sức lan toả mạnh mẽ như vậy? Có phải chăng đó là hình ảnh tinh thanh nhất của làng quê xứ Huế? So sánh với hình ảnh “nắng” trong bài “Mùa xuân chín” Trong làn nắng ửng, khói mơ tan…/ Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang…thì “nắng” ở đây được miêu tả một cách trực quan nên gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Riêng ánh nắng trong “Đây thôn Vĩ Dạ”chỉ gợi chứ không tả nhưng vẫn có sức lôi cuốn, hấp dẫn bởi nó gián tiếp gợi tả vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết, thanh thoát của ánh nắng và cảnh thiên nhiên buổi sớm. Sáng sớm, cau là thứ cây đầu tiên trong vườn được nhận những tia nắng ấm áp, tinh khôi nhất. Sau một đêm đắm mình trong sương lạnh, những hàng cau xanh như được tắm trong làn nắng ấm long lanh và trở nên tinh khiết hơn. Thân cau mảnh mai vươn vào bầu trời trong xanh in bóng xuống mảnh vườn quê với dáng điệu thật thanh thoát. Hình ảnh mở đầu bài thơ thật tươi sáng, thật thơ mộng. Thế nhưng sang khổ hai đột ngột xuất hiện những hình ảnh gợi sự chia lìa, li tán, khác thường Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Hình ảnh thơ thoạt nhìn đã thấy ngay sự phi lí. Theo logic hiện thực thì mây, gió làm sao có thể tách rời nhau. Gió có thể bay “theo lối gió” nhưng mây làm sao có thể tự 4 bay theo lối riêng của mình. Thế mà gió và mây như những cánh lục bình trôi tan tác trên dòng sông. Sự chia phôi này thật ngang trái và phi lí đến mức khó sự chia li này làm cho dòng nước buồn man mác và hoa bắp cũng lay động nghẹn ngào. Tại sao Hàn thi sĩ lại khắc hoạ một hình ảnh như thế? Nhà thơ sáng tạo nên hình ảnh thơ ấy không phải bằng giác quan mà bằng cái nhìn mặc cảm mặc cảm của sự chia lìa. Nhà thơ mang nặng mặc cảm của một người gắn bó sâu nặng với cuộc đời, khát vọng được sống và được yêu hết mình nhưng lại sắp sửa phải chia tay với cuộc sống bởi căn bệnh nan y nên cảm nhận tất cả đều chia lìa, vỡ vụn. Thậm chí những ước vọng tưởng chừng nằm trong tầm tay nhưng đã vuột mất để lại trong tâm hồn nhà thơ một khoảng trống vô biên của nuối tiếc và tuyệt vọng. Về nhịp điệu, câu thơ “Gió theo lối gió, mây đường mây…” cũng có cách ngắt nhịp khác thường. Câu thơ thất ngôn thường ngắt nhịp 2/2/3 nhưng lại được ngắt nhịp 4/3. Mỗi hình ảnh bị chia cách trong một khuôn nhịp riêng biệt càng làm tăng thêm sự ngăn cách. Hình ảnh và nhịp điệu câu thưo như hoà quyện vào nhau tạo nên không khí đau buồn của cuộc chia li giữa mây và gió hay nỗi buồn đau trong tâm tưởng nhà thơ. Nếu phần đầu khổ thơ là hình ảnh cách trở thì phần cuối khổ thơ là những hình ảnh đẹp đẽ, nên thơ với tâm trạng mong chờ, thấp thỏm , lo âu Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay? . Hình ảnh “sông trăng”, “thuyền trăng” thật giàu chất thơ. Hiệu quả nghệ thuật của câu thơ là tạo nên không khí mơ hồ, thực hư chập chờn chuyển hoá cho nhau khá thơ mộng. Nhưng vẻ đẹp của trăng chưa phải là hình ảnh mang dấu ấn thật sự riêng biệt của Hàn Mặc Tử. Chính ý nghĩa của hình tượng “trăng” mới là dấu ấn in đậm trong tâm thức người đọc. Trong khổ thơ, tất cả hình ảnh đều gợi khái niệm phiêu tán. Tất cả đều bị trôi chảy về tận cuối trời xa khiến nhà thơ cảm thấy như mình bị bỏ rơi bên bờ sông quên lãng. Trong khoảnh khắc moment lạc lõng, bơ vơ, cô đơn ấy, Hàn Mặc Tử chỉ còn biết bầu bạn cùng trăng như một niềm an ủi cuối cùng. Trăng giờ đây là điểm tựa tinh thần của nhà thơ. Cho nên, thi sĩ đặt hết niềm hi vọng vào trăng, vào con thuyền chở trăng có về kịp tối nay để xoa dịu vết thương lòng của Hàn Mặc Tử. Trong khổ thơ chỉ có vầng trăng không chấp nhận sự chảy trôi vô lí ấy mà trở về kết bạn tri âm cùng thi sĩ. Nhưng tiếc thay cuối đời vầng trăng thơ ấy cũng không làm nguôi ngoai nỗi sầu của Hàn Mặc Tử nên nhà thơ đành ngậm ngùi chia tay trong đau đớn, xót xa và hờn trách “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho? .” Thuyền có chở trăng về kịp tối nay như một sự cảm nhận ngắn ngủi về thời gian và không gian, sống như chạy đua với những giây phút còn lại của cuộc đời. Cũng chạy đua với thời gian nhưng tâm thế của cái tôi Xuân Diệu lại khác. Xuân Diệu nhận ra cái chết luôn đang chờ mỗi người ở cuối con đường huỷ diệt nên cần sống và tận hưởng men nồng của tình yêu trong “Vội vàng” Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn, Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều… Đối với Hàn Mặc Tử cái chết đã cận kề, chỉ được sống và yêu không thôi là một niềm hạnh phúc quá lớn lao. Vì vậy, chữ “kịp” nghe ngắc ngoải, lo âu, đầy xót thương. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ” có một nét phong cách đặc thù là cực tả. Ngôn từ của nhà thơ thường có thiên hướng miêu tả ở mức cực điểm. Ở khổ 1 tác giả cực tả về sắc xanh kì lạ của vườn quê Vĩ Dạ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. 5 Trong quan niệm của Hàn Mặc Tử, trinh bạch, tinh khiết là vẻ đẹp lí tưởng mà nhà thơ say mê, khao khát. Trong thơ của Hàn thi sĩ, vẻ đẹp ấy thường hiện ra trong sắc trắng lạ lùng. Sắc trắng loá của tà áo người thiếu nữ mà nhà thơ mơ tưởng hay bờ sông trắng nắng chang chang. Có thể nói vấn đề tạo hình là phương thức biểu hiện chủ đạo tạo nên sắc thái biểu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử. Với thế giới các hình ảnh nên thơ, huyền hoặc, đầy sức quyến rũ phần nào đã giúp người đọc cảm nhận được những rung động, những cung bậc khác nhau trong tâm hồn và cảm xúc lạ thường của nhà thơ được bộc lộ qua nghệ thuật ngôn từ. Hàn Mặc Tử đã đi xa nhưng con đường thơ ca của nhà thơ vẫn còn đó, vẫn còn mới mẻ, tinh khôi. Đến với Gái quê, Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Chơi giữa mùa trăng…ta như lạc vào một vườn thơ đầy hương sắc của một hồn thơ luôn yêu đời, yêu cuộc sống. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thông điệp tình yêu đối với thiên nhiên, với con người và cuộc sống đầy lãng mạn nhưng cũng đầy tuyệt vọng. Thế giới nghệ thuật trong “Đây thôn Vĩ Dạ” nói riêng và trong toàn bộ sự nghiệp văn thơ của Hàn Mặc Tử nói chung là một thế giới đa âm sắc, đầy cá tính sáng tạo, mang tính truyền thống về đề tài nhưng cách tân, hiện đại trong câu chữ, nghệ thuật tạo nên những nét lạ thường, độc đáo. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc nhận ra dạng kết cấu vừa đứt đoạn, vừa liên kết, nhất quán của mạch thơ. Hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị nhưng sắc nét. Với thế giới nghệ thuật ấy, Hàn Mặc Tử đã có những đóng góp mới lạ, tạo một phong cách riêng, một thi pháp riêng, một quan niệm nghệ thuật riêng cho làng thơ Bình Định thời bấy giờ với cái tên đày ấn tượng “Trường thơ loạn”. “Đây thôn Vĩ Dạ” đã trải qua bảy mươi năm thăng trầm cùng lịch sử văn học nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị. Đây cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử đầy tài năng mhưng tiếc thay đoản mệnh! Vĩ Dạ, mùa phượng vĩ 2008 6 . VÀI NÉT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ Tác giả Đỗ Minh Phúc Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào. là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của phong trào Thơ mới. Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa - Xem thêm -Xem thêm Vài nét về thế giới nghệ thuật trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử, Vài nét về thế giới nghệ thuật trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử,

nghệ thuật bài thơ đây thôn vĩ dạ